Người phụ nữ Sa-ma-ri
Người xướng ngôn: Hoan nghênh quí thính giả đến với chương trình Lời Sống. Thưa quý vị, có lẽ một trong những câu chuyện lý thú nhất trong Tân ước là câu chuyện ký thuật lại cuộc chuyện trò giữa Chúa Jê-sus và người phụ nữ Sa-ma-ri trong Phúc âm Giăng chương 4. Đây là cuộc tiếp xúc giữa một người đàn ông Do Thái với một phụ nữ thuộc một dân tộc bị người Do Thái xem khinh, một điều tối kỵ thời bấy giờ. Chúa Jê-sus đã vượt qua những thành kiến thời đó như thế nào? Kết quả việc làm này của Ngài là gì? Đó là những điều sẽ được nói đến trong mẫu đối thoại sau đây, sau một số chi tiết về xứ thánh ngày nay. Mời quý vị cùng theo dõi.
Lợi: Chào anh Thân. Anh về lúc nào vậy? Cách đây 2 ngày tôi hỏi thăm thì biết anh đang đi du lịch xứ thánh.
THÂN: Mời anh vào nhà chơi. Vâng, tôi mới về chiều hôm qua. Mệt nhưng vui lắm.
Lợi: Tôi có thể hiểu được tâm trạng này của anh. Được đến thăm vùng đất nổi tiếng vì Chúa Cứu Thế khi đến trái đất đã từng đi lại, giảng dạy, thi thố nhiều phép lạ,... thì sao mà không vui cho được. Ước gì vào một dịp nào đó tôi cũng được đi một chuyến như anh. Trong khi chờ đợi chắc anh phải mô tả lại cho tôi xứ thánh ngày nay thế nào.
THÂN: Thì anh cứ ngồi xuống đi đã chứ có gì mà vội.
Lợi: Tôi ngồi rồi đó. Anh bắt đầu đi. Tôi nôn nóng lắm đây.
THÂN: Nhìn trong bản đồ, anh có thể thấy ngay chính giữa vùng đất này là con sông chúng ta gọi là sông Giô-đanh. Ở phía thượng lưu về phía bắc của nó, thực sự cách đây 30 năm, có hai hồ nhỏ. Mấy hồ này ngày nay đã hoàn toàn khô cạn. Không còn hồ nào ở đó. Chỉ có một hồ lớn thôi.
Lợi: Chắc anh đang muốn nói biển hồ Ga-li-lê chứ gì?
THÂN: Đúng rồi. Nó nằm ở phân khúc phía bắc của sông Giô-đanh. Có ba con sông lớn từ các ngọn núi cũng như núi Hẹt-môn đổ vào đó. Mấy sông này cung cấp cấp nước cho biển hồ Ga-li-lê, và rồi biển này lại dồn số nước vào dòng sông Giô-đanh ở phía nam.
Lợi: Sông Giô-đanh có dài không anh?
THÂN: Từ biển hồ Ga-li-lê cho đến Biển Chết về phía nam thì sông chỉ dài hơn 100 km chút ít.
Lợi: Như vậy vùng đất đâu có lớn lắm.
THÂN: Đúng vậy. Vì nó nhỏ như vậy cho nên anh có thể di chuyển khắp nơi tại Y-sơ-ra-ên thật dễ dàng – chỉ cần khoảng 1 tuần lễ là anh có thể xem toàn bộ đất nước Y-sơ-ra-ên – từ Biển Chết đi ngược lên Biển Ga-li-lê chỉ có khoảng hơn 100 km.
Lợi: Nếu tôi nhớ không lầm thì thành Ca-bê-na-um ở tại vùng Ga-li-lê ở phía bắc?
THÂN: Đúng vậy, Ca-bê-na-um, và một số thành khác nữa. Và thành Ti-bê-ri-át là thành phố cổ nhất cũng ở vùng này.
Lợi: Nếu từ đó đi xuống Biển Chết thì mất bao lâu?
THÂN: Gần lắm. Chỉ một tiếng hoặc một tiếng rưỡi lái xe. Có một số đồi núi, nên hơi chậm hơn so với bình thường. Nhưng ở đó ngày nay đường sá cũng khá tốt.
Lợi: Đó là chiều dài. Còn chiều ngang của vùng đất này thì thế nào?
THÂN: Từ sông Giô-đanh trải cho tới bờ biển chỉ khoảng 50, 60 cây số. Cho nên, nếu anh sắp xếp lịch và đi thăm từng địa điểm, ngày nào cũng đi như vậy, thì anh có thể xem hầu như toàn bộ - hoặc ít nhất là những địa điểm chính – chỉ trong thời gian một tuần lễ thôi.
Lợi: Vậy là, nếu bắt đầu với sông Giô-đanh thì ở phía bắc anh có biển hồ Ga-li-lê, còn ở phía nam anh có biển Chết – nơi dòng sông này đổ vào.
THÂN: Bây giờ, khi anh đi lên phía bắc ở trên vùng Ga-li-lê, và giả sử anh đang sống tại vùng đó thời Chúa Cứu Thế, nếu anh muốn đi xuống thành Giê-ru-sa-lem ở phía nam, cách Giê-ri-cô khoảng chừng 25-30 km gì đó. Khoảng cách đó sẽ mất mấy ngày đi bộ, cho nên anh sẽ muốn đi con đường ngắn nhất để rút ngắn thời gian di chuyển. Tuy nhiên, ở đây có một trở ngại.
Lợi: Trở ngại gì vậy, anh?
THÂN: Đó là vùng đất Sa-ma-ri, ở miền trung.
Lợi: Nhưng trở ngại mà anh muốn nói là thế nào?
THÂN: Nếu là anh thì có lẽ không có vấn đề gì. Nhưng với người Do Thái chính tông thì họ lại muốn tránh xa vùng Sa-ma-ri ấy, vì dân Sa-ma-ri bị họ xem là dân tạp.
Lợi: Vâng, tôi hiểu rồi. Người Sa-ma-ri là dân Do Thái bị pha trộn, cho nên họ bị người Do Thái thuần chủng xem khinh ấy mà.
THÂN: Đúng vậy. Nhân nhắc đến người Sa-ma-ri, tôi thấy chúng ta cũng nên liên hệ câu chuyện được ký thuật trong Phúc âm Giăng về người phụ nữ Sa-ma-ri.
Lợi: Vâng, tôi cũng nghĩ vậy. Không biết anh thế nào, chứ tôi thích câu chuyện ấy lắm đó.
THÂN: Nếu đọc Phúc âm Giăng 4, anh sẽ thấy Chúa Jê-sus không tránh lãnh thổ của dân Sa-ma-ri. Đa số người thời đó thường đi tránh sang phía đông bằng cách qua sông Giô-đanh, để vào vùng hoang mạc tại đây. Sau đó họ mới bắt đầu đi xuống hướng nam, và rồi lại sang sông Giô-đanh lần nữa để tránh gặp dân Sa-ma-ri.
Lợi: Thái độ kỳ thị khiến họ phải chịu cực nhọc đến vậy à?
THÂN: Vâng. Nhưng Chúa Jê-sus lại không làm như vậy. Ngài đi thẳng, giống như cách chim thường bay, và vì thế Ngài đi ngang qua vùng Sa-ma-ri.
Lợi: Kinh thánh ở đây cho biết Ngài đi đường mỏi mệt và khát nước.
THÂN: Và cũng vấy bẩn nữa. Ngài cần nước uống, nên Ngài đến một cái giếng. Tại bên giếng này, Ngài tiếp xúc với một phụ nữ. Và điều này rất khác thường.
Lợi: Khác thường là thế nào?
THÂN: Anh có để ý lúc đó là mấy giờ không?
Lợi: Kinh thánh nói là giờ thứ sáu.
THÂN: Tức 12 giờ trưa. Và chúng ta cần lưu ý chi tiết này, vì thường phụ nữ trong làng chỉ ra giếng múc nước vào lúc sáng sớm rồi mang về nhà để có nước dùng trong ngày. Còn người phụ nữ này – người phụ nữ Sa-ma-ri mà Chúa Jê-sus gặp ở đây – có lẽ bà này là người duy nhất ở bên giếng vào giờ đó, cùng với Chúa Jê-sus. Có thể còn vài ba người khác nữa, nhưng chắc chắc các phụ nữ trong làng không ai có ở đó, vì họ đã đến múc nước cho ngày hôm đó rồi.
Lợi: Vậy, tại sao phụ nữ Sa-ma-ri này lại một mình đi múc nước vào giữa trưa mà không cùng đi với các phụ nữ kia nhỉ?
THÂN: Chúng ta có thể hiểu điều này khi đọc tiếp câu chuyện. Chị là một phụ nữ trác tán. Hay là gái mại dâm, theo cách gọi ngày nay. Chị thuộc hạng người mà các phụ nữ khác xa lánh. Họ không thèm giao thiệp với chị vì tai tiếng của chị.
Lợi: Nhưng làm sao anh biết người phụ nữ Sa-ma-ri nầy thuộc hạng người như vậy?
THÂN: Qua số lần kết hôn của chị. Anh có thể xem ký thuật trong Kinh thánh để biết bao nhiêu lần; và thêm vào đó, khi nói về chồng con, thì người phụ nữ này trả lời là “tôi không có chồng.” Và Chúa Jê-sus đồng ý ngay: Ngươi nói đúng. Quả là chị không có chồng vì người đàn ông mà chị đang chung sống không phải là chồng của chị.”
Lợi: Chắc là chị ta ngạc nhiên lắm khi thấy một người xa lạ như Chúa Jê-sus mà lại biết rõ cuộc đời mình như vậy.
THÂN: Vâng. Chị lập tức nhận ra: “Chà, mình đang đối diện với một đấng tiên tri. Ông ta biết mọi thứ về mình. Còn có thể là ai được chứ? Ông ta biết rõ cuộc đời mình, dầu mình chưa hề gặp ông ta bao giờ.” Và Chúa Jê-sus giải thích cho chị - Ngài nói rõ cho chị biết: “Các ngươi đang trông đợi Đấng Mết-si-a – Đấng sẽ đến để giải cứu Y-sơ-ra-ên. Thật ra, ngươi đang nói chuyện với Đấng đó. Chính là ta đây – người đang đứng trước mặt ngươi. Ta chính là Đấng đã được hứa ban.”
Lợi: Tôi nghe nói thời đó đàn ông rất kỵ nói chuyện với phụ nữ ở nơi công cộng, phải không anh?
THÂN: Đúng vậy. Thời đó người ta còn xem thường phụ nữ dữ lắm. Đàn ông Do Thái hay cầu nguyện vào những giờ nhất định trong ngày, và họ thậm chí cầu nguyện đại ý: “Tôi cám ơn Chúa về điều này, điều này,” rồi họ tiếp, “và tôi cũng cám ơn Chúa vì tôi không phải là phụ nữ.”
Lợi: Họ xem thường phụ nữ đến vậy ấy à?
THÂN: Vâng, phụ nữ thường bị loại sang một bên. Cho nên chẳng có người đàn ông tự trọng nào lại dừng bước ngoài đường để nói chuyện với một phụ nữ, hoặc hỏi thăm việc gì đó, hoặc như Chúa Jê-sus, xin nước uống. Cho nên việc Chúa Jê-sus làm ở đây rất khác thường.
Lợi: Ở đây tôi thấy Chúa Jê-sus đã vượt qua hai thành kiến. Trước hết Ngài không hành động theo thành kiến của người Do Thái đối với dân Sa-ma-ri. Và thứ hai, Ngài cũng không kỳ thị phụ nữ như đàn ông Do Thái thời đó.
THÂN: Vâng, Ngài vẫn cứ đến và tỏ cho chị này biết Ngài là Đấng Mết-si-a, là Đấng được phán hứa mà họ đang trông đợi. “Ta chính là Đấng đó” – Ngài phán với chị.
Lợi: Rồi Ngài cũng tỏ cho chị một cách kỳ diệu về quá khứ của chị nữa chứ.
THÂN: Vâng, và ở đây chúng ta được cho biết chị rất ấn tượng về điều này, đến nỗi chị chạy vào lại trong làng, hay là thị trấn gì đó. Chị la lên: “Hãy đi theo tôi. Mọi người phải gặp người này mới được. Quý vị phải nghe người này mới được. Ông ta biết hết mọi thứ về quý vị. Đây không phải là Đấng lâu này chúng ta vẫn trông đợi sao? Đây không phải là Đấng Mết-si-a đã được phán hứa sẽ đến sao?”
Lợi: Tôi cũng thấy rộn ràng khi nghe lời chị thuật lại ở đây. Điều này thường xảy ra khi Đức Chúa Trời ban phước cho ai đó, chữa lành cho ai đó, hoặc đuổi quỷ ra khỏi ai đó.
THÂN: Nó hay xảy ra khi Chúa Cứu Thế ban cho ai đó một ơn phước đặc biệt như vậy, khiến họ muốn theo Ngài. Khi nói điều này, dĩ nhiên tôi cũng biết rằng có những trường hợp, như những phung chẳng hạn – họ thậm chí chẳng quay trở lại để cám ơn Chúa.
Lợi: Vâng, có những người khi được phước Chúa chỉ biết vui hưởng mà không hề tỏ lòng biết ơn Ngài.
THÂN: Nhưng cũng có những người khi được chữa lành hoặc cứu giúp thì họ muốn theo Chúa. Họ muốn nói: “Tôi muốn được ở với Ngài. Tôi muốn xem thấy những phép lạ khác nữa. Tôi muốn được phước nhờ sự hiện diện của Ngài.”
Lợi: Và người phụ nữ Sa-ma-ri này thuộc trong số này?
THÂN: Đúng vậy. Chị thấy mình cần phải chia xẻ tin mừng, và chị trở thành một chứng nhân. Tôi hy vọng chúng ta sẽ học được gương của chị. Chúng ta là con cái Chúa, chúng ta đã chứng khiến bàn tay của Ngài trong cuộc đời mình. Chúng ta đã kinh nghiệm Ngài ban phước cho mình. Chúng ta đã kinh nghiệm được sự chữa lành của Ngài. Chúng ta kinh nghiệm tình yêu của Ngài. Chúng ta chứng kiến những việc này trong đời sống. Khi chúng ta đọc Lời Ngài, chúng ta biết Ngài càng thêm và mối liên hệ giữa chúng ta với Ngài càng khắng khít. Hội ngộ với Chúa Jê-sus là điều vô cùng ý nghĩa.
Lợi: Đương nhiên là như vậy. Không ai có thể được cứu cho đến khi người đó gặp được Chúa Jê-sus. Ngoài Ngài ra, chẳng có danh nào giữa vòng nhân loại ban sự cứu rỗi cho người ta được.
THÂN: Vâng. Không hề có nhiều đấng cứu tinh để người ta lựa chọn theo ý mình, mà chỉ có duy nhất MỘT Cứu Chúa. Chỉ có MỘT Đấng duy nhất đã thắng hơn sự chết. Chỉ có MỘT Đấng đã sống lại từ cõi chết, ngoại trừ những người mà chính Ngài đã dùng phép lạ khiến sống lại – như La-xa-rơ chẳng hạn. Chỉ có MỘT Đấng duy nhất đưa chúng ta đến sự cứu rỗi, và Đấng đó là Chúa Cứu Thế Jê-sus.
Lợi: Người phụ nữa này đã gặp Chúa Jê-sus, và nhờ đó chị khám phá ra Đấng Mết-si-a, Cứu Chúa của mình.
THÂN: Việc của chúng ta, những con dân Chúa trên đất này, là giới thiệu người khác đến với Chúa Jê-sus, để họ gặp được Ngài, để Đức Chúa Trời bày tỏ cho họ biết Chúa Jê-sus là ai, bởi quyền năng Thánh Linh Ngài. Họ cần phải biết Ngài chính là Mết-si-a, Đấng được hứa ban. Ngài là Cứu Chúa của họ, Đấng cất đi tội lỗi họ. Ngài có thể ban cho họ sự sống đời đời, và Ngài mong muốn như vậy.
Người xướng ngôn: Sau khi gặp Chúa Jê-sus và nhận biết Ngài chính là Chúa Cứu Thế, người phụ nữa Sa-ma-ri đã bất chấp những mặc cảm, e dè vì thành kiến của xã hội đối với mình, và không ngần ngại rao báo cho mọi người tin mừng về Ngài. Là những người đã gặp Chúa và được Ngài cứu chuộc, chúng ta cần học theo gương của phụ nữ Sa-ma-ri này. Chúng ta hãy giới thiệu bạn bè, người thân, con cháu, hàng xóm của mình – bất cứ ai… Hãy đưa họ đến với Chúa Jê-sus để họ cũng gặp được Ngài.
Chương trình Lời Sống đến đây tạm dừng. Mong quý thính giả tiếp tục đón nghe các chương trình tiếp theo. Kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại.