Ca-bê-na-um Chuyển Bại Thành Thắng
Mác 2:1-2: “Mấy ngày sau, Chúa Jesus trở về thành Ca-bê-na-um. Nghe tin Ngài về nhà, dân chúng kéo đến đông đảo đến nỗi ngoài cửa cũng không còn chỗ và Ngài dạy đạo cho họ”
Mặc dầu ra đời tại Bết-lê-hem, xứ Giu-đa miền Nam, Chúa Jesus lớn lên tại Na-xa-rét, xứ Ga-li-lê miền Bắc. Bước vào chức vụ, Chúa rời Na-xa-rét đến Ca-bê-na-um, một làng chài lưới bên bờ Tây Bắc của biển hồ Galilee.
Ðược hình thành trong thế kỷ thứ nhì trước Chúa nên Ca-bê-na-um chỉ được nhắc đến trong Tân Ước. Nằm dưới mực nước biển, và khoảng 10 dặm (16 km) về hướng Bắc của Ti-bê-ri-át.
Ðánh cá, làm cá khô, xuất cảng cá, đan lưới, vá lưới, đóng thuyền và sửa chữa thuyền là ngành chuyên biệt của đa số dân Ca-bê-na-um. Phần còn lại làm ruộng, nhờ đất cày cấy ở đây phì nhiêu.
Ca-bê-na-um là một trung tâm thương mại quan trọng của vùng Galilee. Giao lộ từ bờ Ðịa-trung hải và Ai-cập dẫn sang Damascus, Syria và Mesopotamia. Các đoàn hành thương nghỉ đêm tại Ca-bê-na-um - lấy nước, mua rau cải, ngũ cốc và cá khô.
Ca-bê-na-um trở thành cửa khẩu quan thuế lớn. Lê-vi Ma-thi-ơ thu mãi lộ, thuế cá, hàng hóa thương mại, nông sản, ngũ cốc tại đây. Chúa Jesus đến gặp Lê-vi tại sở thuế để kêu gọi ông. Ông đứng dậy dứt khoát theo Ngài liền (Ma-thi-ơ 9:9).
Ông mời bạn bè đến nhà dự một bữa tiệc trang trọng để giới thiệu Chúa. Thấy Chúa ngồi ăn với những người thu thuế gian dối, mấy thầy Biệt lập bất bình, đến chất vấn các môn đệ Ngài: “Sao Thầy các anh ngồi ăn với hạng người xấu xa đó?”
Chúa Jesus đáp: “Người bệnh mới cần bác sĩ, chứ người khỏe mạnh không cần! Ta đến trần gian không phải để thuyết giảng cho người thánh thiện, nhưng để kêu gọi người có tội quay về Thượng Ðế.”
Một đại đội lính La-mã xây dựng pháo đài và cơ sở đóng quân khá bề thế tại mặt Ðông của Ca-bê-na-um, dưới quyền một sĩ quan mà các sách Phúc âm gọi là thầy đội (a centurion).
Thầy đội nầy là người khiêm cung, kính sợ Chúa và rất tử tế với người Do-thái. Ông xây nhà hội cho họ – nơi Chúa giảng dạy. Một đầy tớ thân tín của ông đau gần chết, Chúa chữa lành nhờ lời cầu xin thành khẩn và đức tin lớn của ông (Ma-thi-ơ 8:5).
Tại sao Chúa dọn về Ca-bê-na-um? Không phải vì cảnh đẹp của hồ Galilee. Không phải vì Chúa thích câu cá, khi “ao thu lạnh lẽo, nước trong veo.”
Chúa chọn Ca-bê-na-um để ứng nghiệm lời tiên tri Ê-sai 9:1-2: “Thời kỳ tối tăm tuyệt vọng sẽ chấm dứt. Dù lãnh thổ Sa-bu-lôn và Nép-ta-li sắp bị Chúa đoán phạt, nhưng trong tương lai chính các lãnh thổ đó tức là vùng Ga-li-lê và bắc Giô-đanh, trên con đường ra biển sẽ đầy dẫy vinh quang. Nhân dân đang đi trong bóng tối sẽ thấy Nguồn Sáng lớn chiếu soi những người đang ngồi dưới bóng sự chết.”
Ma-thi-ơ 4:13-16 trích dẫn lời tiên tri nầy: “Ngài lại rời Na-xa-rét, đến ngụ tại thành Ca-bê-na-um bên bờ biển Ga-li-lê, cạnh vùng Sa-bu-lôn và Nép-ta-li. Việc xảy ra đúng như lời tiên tri Ê-sai.”
Ê-sai rao báo lời tiên tri nầy 700 năm trước Chúa Jesus – xác định Chúa sẽ thi hành chức vụ tại vùng Giô-đanh. Chúa vượt sông Giô-đanh để vào lãnh thổ của Herod Philip, tức là vùng Golan Heights ngày nay.
Vì Chúa Jesus chọn Ca-bê-na-um làm căn cứ truyền giáo, nên một số sứ đồ cũng dọn về đây. Mặc dù sinh ra và lớn lên tại Bết-sai-đa (Giăng 1:44), Phi-e-rơ và Anh-rê đã dọn về Ca-bê-na-um. Gia đình bà gia của Phi-e-rơ ở tại đây.
Sau khi ngồi trên thuyền của Phi-e-rơ dạy dỗ dân chúng, Chúa bảo Phi-e-rơ: “Con chèo ra chỗ nước sâu thả lưới, sẽ bắt được nhiều cá. Phi-e-rơ đáp: ‘Thưa Thầy, chúng con đánh cá suốt đêm mà chẳng được gì. Nhưng Thầy đã bảo, chúng con xin thử một lần nữa!”
Họ thả lưới và bắt được nhiều cá, đến nỗi lưới sắp rách. Họ gọi bạn chài trên thuyền kia đến tiếp tay. Cả hai thuyền đều tràn ngập cá, gần chìm. Các tay chài lão luyện Si-môn, Anh-rê, Gia-cơ và Giăng đều kinh ngạc.
Phi-e-rơ quỳ xuống trước mặt Chúa: “Lạy Chúa xin lìa xa con, vì con là người tội lỗi, không xứng đáng ở gần Chúa.” Chúa bảo: “Ðừng sợ, từ nay các con sẽ đi cứu vớt đồng loại.” Sau khi đưa thuyền vào bờ, họ bỏ tất cả để theo Chúa (Lu-ca 5:1-11).
Có lần Phi-e-rơ bị gạn hỏi: “Thầy của anh có đóng thuế Ðến thờ không?” Phi-e-rơ đáp: “Có chứ!” (Ma-thi-ơ 17:24). Ông vào nhà định trình lại với Chúa, nhưng Chúa hỏi trước: “Con nghĩ sao? Các vua chúa đánh thuế con cái trong nhà hay người ngoài?”
Phi-e-rơ thưa: “Người ngoài!” Chúa tiếp: “Còn con cái trong nhà khỏi đóng thuế. Nhưng để làm gương tốt, con ra biển câu cá. Ðược con cá đầu tiên, con banh miệng nó sẽ thấy một đồng bạc. Lấy đồng bạc đó đem đóng thuế cho ta với con!”
Các nhà khảo cổ đã đào bới được căn nhà của Phi-e-rơ (Mác 1:29). Ðây là chỗ Chúa chữa lành bịnh cho bà gia Phi-e-rơ. Nhà nầy rất rộng – gần nhà hội, đủ chỗ cho cả phái đoàn truyền giáo của Chúa.
Sau khi Chúa chết, sống lại và về trời, nhà nầy trở thành nhà của “Hội thánh tư gia đầu tiên.” Mấy trăm năm sau, một ngôi nhà thờ được xây dựng ngay tại địa điểm nầy để kỷ niệm.
Nhà thờ về sau bị phá hủy nhưng các nhà khảo cổ đã đào tìm được cả nhà thờ và nhà của Phi-e-rơ. Mari, mẹ của Chúa Jesus cũng dọn về đây cùng với các em của Ngài (Ma-thi-ơ 12:46-49).
Nhà hội là một tòa nhà đá kiên cố, nổi bật ngay trên đồi cao, gần bên hồ. Nhà hội nầy đã bị phá hủy cùng thời với Ðền thờ Jerusalem, năm 70 Sau Chúa. Nhà hội ngày nay đang đứng vững tại Ca-bê-na-um là một tòa nhà đá trắng kiên cố, được xây dựng khoảng năm 250 Sau Chúa.
Ðây là nơi người Do-thái đến, hướng mặt về Jerusalem cầu nguyện. Mác 1:21-27 cho biết sau một lần giảng dạy tại nhà hội nầy, Chúa quở trách ác quỷ và đuổi chúng ra khỏi một người bị quỷ ám.
Cũng trong nhà hội nầy Chúa giảng: “Ta là Bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn Bánh nầy, uống huyết nầy chẳng bao giờ chết nhưng được sự sống đời đời” (Giăng 6:51-69).
Tại đây, một lần Chúa đang giảng dạy, mẹ và các em Ngài đến đứng bên ngoài muốn nói chuyện với Ngài. Chúa phán những lời đáng ghi nhớ, “Ai là mẹ ta? Ai là em ta? Ngài chỉ các môn đệ: Ðây là mẹ và anh chị em ta. Vì tất cả những người làm theo ý muốn Cha ta trên trời đều là anh chị em và mẹ ta.”
Ca-bê-na-um là nơi Chúa Jesus làm khá nhiều phép lạ. Mác 2:1-12 ghi lại câu chuyện bốn người khiêng một người bại nằm trên cáng. Biết không thể chen qua đám đông, họ dỡ mái nhà, dòng người bại xuống trước mặt Chúa.
Thấy đức tin của họ, Chúa bảo người bại: “Con ơi, tội lỗi con được tha rồi. Hãy đứng dậy, đem cáng về nhà!” Người bại lập tức vùng dậy, xếp cáng vác đi, ngay trước mặt mọi người. Ai nấy đều kinh ngạc, ca ngợi Chúa và bảo nhau: “Thật là việc phi thường, chưa bao giờ thấy!”
Hoàn cảnh đau thương của người bại thúc đẩy bạn anh hành động. Bạn và tôi thấy ai chung quanh mình với nhu cầu thể chất, nhu cầu tâm linh cần giúp đỡ?
Một viên chức từ thành Ca-bê-na-um có con trai đau nặng gần chết, tìm Chúa Jesus trong thành Ca-na, nài nỉ Chúa trở về Ca-bê-na-um chữa bệnh cho con: “Xin Chúa đến trước khi con tôi chết!” (Giăng 4:49)
Chúa đáp: “Ông về đi! Con ông lành bệnh rồi!” Ông tin Lời Chúa, tất tả về Ca-bê-na-um. Giữa đường, gặp người nhà đến báo tin con trai đã lành bệnh, ông hỏi: “Nó hết đau vào giờ nào?” Họ thưa: “Trưa hôm qua, lúc một giờ, cơn sốt dứt hẳn.” Ông nhớ rõ đúng giờ ấy Chúa Jesus bảo: “Con ông lành bệnh rồi!” Ông và cả gia đình đều tin Chúa Cứu Thế.
Ðoàn dân đông đảo đến đón Chúa dọc bờ biển. Giai-ru - viên quản lý nhà hội đến quỳ nơi chân Chúa, khẩn hoản mời Ngài về nhà, vì con gái duy nhất của ông lên mười hai tuổi đang hấp hối.
Khi đi đường, dân chúng lấn ép chung quanh Chúa. Trong đám đông có một phụ nữ bị băng huyết mười hai năm, đã chạy chữa lắm thầy nhiều thuốc, nhưng không lành. Bà đến sau lưng Chúa, sờ trôn áo Ngài, lập tức huyết cầm lại. Chúa hỏi: “Ai sờ áo ta?”
Thấy mọi người yên lặng, Phi-e-rơ lên tiếng: “Thưa Thầy, biết bao nhiêu người chen lấn quanh Thầy!” Nhưng Chúa đáp: “Có người vừa sờ áo ta, vì ta biết có quyền lực trong ta phát ra.”
Biết không thể dấu được nữa, người đàn bà run rẩy đến quỳ trước mặt Chúa, thưa thật giữa công chúng tại sao mình đã sờ áo Chúa và lập tức được lành. Chúa bảo: “Con ơi, đức tin con đã chữa cho con lành. Hãy về nhà bình an.”
Giữa đám đông khỏe mạnh bám sát theo Chúa, một người đàn bà bịnh hoạn yếu đuối phấn đấu hết sức mình để đến gần Ngài. Ngay trong tích tắc mầu nhiệm - bàn tay run rẩy chạm áo Chúa - bà được lành bệnh liền.
Cả trăm người hiếu kỳ, lấn ép nhau – chạm vào Chúa - nhưng không nhận lãnh được gì. Thiếu phụ yếu đuối nhưng mạnh mẽ với niềm tin - được cứu rỗi và đổi mới phước hạnh. Bạn là người tò mò, hiếu kỳ hay bạn là người khao khát tìm Chúa với lòng tin chân thành và có chủ đích?
Chúa còn đang nói, người nhà Giai-ru đến báo tin: “Con gái ông chết rồi, đừng làm phiền Thầy nữa!” Chúa bảo Giai-ru: “Ðừng sợ, cứ vững lòng tin, con ông sẽ lành.” Ðến nhà, Chúa không cho ai vào - ngoài Phi-e-rơ, Gia-cơ, Giăng và cha mẹ đứa bé. Nhiều người đang than khóc kêu la, nhưng Chúa bảo: “Ðừng khóc nữa! Em bé chỉ ngủ chứ không chết đâu!”
Họ quay lại chế nhạo Ngài nhưng Chúa nắm tay đứa bé, gọi: “Dậy đi, con!” Ðứa bé sống lại, liền đứng dậy. Ngài bảo cho nó ăn. Cha mẹ đứa bé quá ngạc nhiên, nhưng Chúa dặn đừng nói cho ai biết (Lu-ca 8:41-56).
Ca-bê-na-um bao gồm đủ mọi giai cấp, từ quan quyền trưởng giả, giàu có đến giới bình dân nghèo thiếu. Họ có nhiều cơ hội quý báu gặp Chúa Jesus, nghe giảng dạy và chứng kiến các phép lạ diệu kỳ Ngài làm.
Nhưng đa số dân Ca-bê-na-um rất thờ ơ và thiếu lòng tin - như mấy thầy dạy luật nghi ngờ, chống đối Chúa. Ngài quở trách họ cứng lòng và không chịu ăn năn (Ma-thi-ơ 11:23-24): “Còn thành Ca-bê-na-um được đem lên tận trời sao? Không, nó sẽ bị ném xuống hỏa ngục! Ðến ngày phán xét cuối cùng, Sô-đôm còn đáng được dung thứ hơn Ca-bê-na-um!”
Ðúng như lời Chúa quở trách, Ca-bê-na-um cũng như Cô-ra-xin và Bết-sai-đa đều bị tiêu hủy. Riêng Ca-bê-na-um nằm yên trong hoang tàn đổ nát nhiều thế kỷ.
***
Bạn thích phép lạ nào nhất trong những phép lạ Chúa Jesus làm tại Ca-bê-na-um? Tôi say mê câu chuyện người bại nằm trên cáng được Chúa chữa lành. Tôi hình dung đôi mắt yêu thương, nhân từ của Chúa nhìn bốn người bạn. “Chúa thấy đức tin của họ” có nghĩa gì?
Ðức tin của họ có việc làm kèm theo! Vì quan tâm, vì thương bạn, họ nhiệt tình làm một việc cụ thể, hữu ích, tuyệt vời. Nhờ họ, người bại gặp Chúa - thấy ánh sáng, hy vọng, được tha thứ tội lỗi, được chữa lành và đổi mới.
Chúa chuyển bại thành thắng. Chúa đổi đau thương thành phước hạnh trong đời sống anh ta – nhờ những người bạn tốt. Anh, Chị và tôi có phải là những người bạn tốt? Làm sao Chúa và bạn bè “thấy” đức tin trong chúng ta hôm nay?
Amen.